Các nhà nghiên cứu Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã ghi nhận 95 loài có giá trị bảo tồn gồm 30 loài thú, 40 loài chim, 22 loài bò sát và 3 loài ếch nhái trong nghiên cứu: “Đánh giá hiện trạng đa dạng loài thú, chim, bò sát và ếch nhái trên một số đảo ven bờ ở Việt Nam và dự báo ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến phân bố của một số loài nguy cấp, quý, hiếm”, mã số: KHCBSS.02/20-22.
Các loài động vật (thú, chim, bò sát và ếch nhái) có vai trò sinh thái quan trọng trên các hệ sinh thái ở các đảo ven bờ của Việt Nam và là các loài chỉ thị đặc trưng khi đánh giá sự thay đổi cấu trúc thành phần loài, cũng như số lượng loài và loài đặc hữu nếu có những thay đổi nhất định về môi trường sống. Tuy nhiên, những nghiên cứu khu hệ động vật thú, chim, bò sát và ếch nhái ở các đảo ven bờ của nước ta vẫn còn hạn chế và chưa có những đánh giá tổng thể.
Nhằm góp phần nhận định sự đa dạng về thành phần loài và loài đặc hữu đặc biệt trên các đảo ven bờ Việt Nam, các nhà khoa học đã khảo sát tại 03 đảo đại diện: Đảo Cát Bà (Hải Phòng - miền Bắc), đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam - miền Trung) và Đảo Phú Quốc (Kiên Giang - miền Nam) và kết hợp điều tra bổ sung Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòn Nghệ (Kiên Giang), Hòn Khoai (Cà Mau - miền Nam). Kết quả đã ghi nhận được 95 loài thú thuộc 21 họ, 7 bộ; 236 loài chim thuộc 57 họ, 19 bộ; 105 loài bò sát thuộc 21 họ, 42 loài ếch nhái thuộc 6 họ, 2 bộ. Trong nhóm thú, bộ Dơi và bộ Gặm nhấm chiếm ưu thế, ghi nhận số loài nhiều nhất, Bộ Sẻ và bộ Rẽ chiếm ưu thế và ghi nhận được nhiều loài nhất trong nhóm chim. Với nhóm bò sát, họ Rắn nước chính thức và họ Tắc kè chiếm ưu thế, trong khi họ Ếch cây, họ Nhái Bầu chiếm ưu thế và được ghi nhận nhiều loài nhất trong nhóm ếch nhái.
Chủ nhiệm TS. Nguyễn Trường Sơn và nhóm nghiên cứu thu mẫu
Trong 3 khu vực khảo sát chủ yếu, VQG Cát Bà, VQG Phú Quốc được ghi nhận có sự đa dạng nhất về số lượng và thành phần loài thú, chim và ếch nhái. VQG Côn Đảo được ghi nhận có sự đa dạng nhất về số lượng, thành phần loài bò sát. VQG Côn Đảo, VQG Cát Bà và VQG Phú Quốc có mức độ tương đồng hơn, hợp thành một nhóm, còn Đảo Cù Lao Chàm tách thành một nhóm riêng. Kết quả phân tích sinh học phân tử đã đánh giá mối quan hệ di truyền giữa đảo với đất liền trên một số loài lựa chọn: gồm loài Đồi (Tupaia belangeri), Sóc đỏ (Callosciurus finlaysonii) và công bố một phân loài mới Sóc đỏ hòn nghệ (Callosciurus finlaysonii honghensis).
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng bộ mẫu phục vụ công tác nghiên cứu, gồm 45 tiêu bản của 25 loài thú nhỏ và 20 loài bò sát, ếch nhái. Đồng thời, đã xác định các nhân tố tác động đến các loài động vật là mất, suy thoái và bị chia cắt sinh cảnh sống và dự báo sự thay đổi về phân bố của một số loài đặc hữu, nguy cấp, quý, hiếm theo viễn cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất các giải pháp quản lý và bảo tồn các loài thú, chim, bò sát và ếch nhái trên một số đảo ven bờ phù hợp với điều kiện địa phương.
TS. Nguyễn Trường Sơn chia sẻ, trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống và hiện đại, nhiệm vụ đã góp phần giải quyết những yêu cầu cấp thiết hiện nay trong nghiên cứu bảo tồn các loài thú, chim, bò sát và ếch nhái trên các đảo ven bờ của Việt Nam. Nghiên cứu về các loài động vật ở đảo giúp đánh giá nguồn gốc phát sinh, giá trị đa dạng sinh học, tính đặc hữu của loài kết hợp với hoạch định chiến lược và xây dựng kế hoạch bảo tồn đa dạng sinh học, định hướng cho việc phát triển du lịch sinh thái bền vững trong tương lai ở các đảo ven bờ của Việt Nam.
Từ các kết quả đạt được, đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam xếp loại A.
Nguồn: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam